Suy gan cấp là gì? Các công bố khoa học về Suy gan cấp

Suy gan cấp là một tình trạng khẩn cấp khi gan của một người bị suy yếu hoặc không hoạt động đúng cách dẫn đến nguy cơ tử vong. Suy gan cấp thường được gây ra b...

Suy gan cấp là một tình trạng khẩn cấp khi gan của một người bị suy yếu hoặc không hoạt động đúng cách dẫn đến nguy cơ tử vong. Suy gan cấp thường được gây ra bởi các nguyên nhân như viêm gan cấp tính, nhiễm độc gan do sử dụng rượu, thuốc lá hoặc các chất màu, hoặc các bệnh truyền nhiễm. Những triệu chứng của suy gan cấp có thể bao gồm sự mệt mỏi, buồn nôn, nôn mửa, chảy máu dạ dày, thay đổi tâm thần và huyết áp thấp. Điều trị suy gan cấp thường liên quan đến hỗ trợ chức năng gan và đối phó với nguyên nhân gây ra tình trạng này.
Suy gan cấp là một tình trạng nguy hiểm và khẩn cấp yêu cầu chăm sóc y tế tức thì. Khi gan không hoạt động đúng cách, chức năng cơ bản của cơ quan này như sản xuất mật, tiết chất quá trình chuyển hóa các chất và loại bỏ chất thải diễn ra không đủ hiệu quả. Điều này có thể dẫn đến một loạt các vấn đề sức khỏe nghiêm trọng và nguy hiểm đến tính mạng.

Nguyên nhân chính gây suy gan cấp bao gồm:
1. Viêm gan cấp tính: Viêm gan cấp tính (ví dụ như viêm gan virus) là nguyên nhân phổ biến nhất gây suy gan cấp. Nó có thể dẫn đến sưng gan và việc tổn thương tế bào gan, làm giảm chức năng cơ bản của gan.

2. Nhiễm độc gan: Sử dụng quá mức rượu, thuốc lá, chất màu hoặc các chất độc khác có thể gây tổn thương gan và suy gan cấp.

3. Bệnh truyền nhiễm: Một số bệnh truyền nhiễm nghiêm trọng như viêm gan B hoặc C, sốt phát ban dại (typhoid), và viêm gan do niêm mạc (cholangitis) có thể gây suy gan cấp nếu không được điều trị kịp thời.

Triệu chứng của suy gan cấp có thể bao gồm:
1. Mệt mỏi: Cảm giác mệt mỏi dai dẳng, không có sức lực.

2. Buồn nôn và nôn mửa: Thường xuất hiện sau khi ăn hoặc uống, và có thể gắng mửa nhiều lần.

3. Chảy máu dạ dày: Suy gan cấp có thể gây ra sự xuất huyết trong dạ dày và thận, dẫn đến nôn mửa có chứa máu.

4. Thay đổi tâm thần: Suy gan cấp có thể gây ra sự lú lẫn, sự mất tập trung và thay đổi tâm trạng, và trong trường hợp nặng, có thể gây ra giảm khả năng nhận thức và hôn mê.

5. Huyết áp thấp: Một số người có suy gan cấp có thể trải qua giảm huyết áp, gây ra hiện tượng chóng mặt hoặc ngất.

Điều trị suy gan cấp phải được thực hiện ngay lập tức và thông qua các biện pháp thiết yếu để hỗ trợ chức năng gan và điều trị nguyên nhân chính gây suy gan. Điều này có thể bao gồm thủ thuật tạo mỡ, truyền máu, hoặc thậm chí cần cấy ghép gan nếu gan đã bị tổn thương nặng và không thể phục hồi. Chính vì vậy, việc phát hiện và điều trị suy gan cấp càng sớm càng quan trọng để tăng cơ hội hồi phục và tồn tại.

Danh sách công bố khoa học về chủ đề "suy gan cấp":

Truyền tế bào gốc trung mô người an toàn và cải thiện chức năng gan ở bệnh nhân suy gan cấp trên nền mãn tính Dịch bởi AI
Stem cells translational medicine - Tập 1 Số 10 - Trang 725-731 - 2012
Tóm tắt

Suy gan cấp trên nền mãn tính (ACLF) là một biến chứng nghiêm trọng, đe dọa tính mạng, và cần thiết phải có các chiến lược điều trị mới và hiệu quả cho suy gan. Việc truyền tế bào gốc trung mô (MSC) đã được chứng minh là có khả năng đảo ngược tình trạng suy gan cấp tính ở chuột và cải thiện chức năng gan ở bệnh nhân có bệnh gan giai đoạn cuối. Chúng tôi đã đánh giá độ an toàn và hiệu quả ban đầu của việc truyền MSC lấy từ dây rốn (UC-MSC) cho bệnh nhân ACLF liên quan đến nhiễm vi rút viêm gan B (HBV). Tổng cộng 43 bệnh nhân ACLF đã được tham gia vào nghiên cứu này, một nghiên cứu mở và có kiểm soát; 24 bệnh nhân được điều trị bằng UC-MSCs, và 19 bệnh nhân còn lại được điều trị bằng dung dịch muối sinh lý như nhóm chứng. Việc điều trị bằng UC-MSC được thực hiện ba lần tại các khoảng cách 4 tuần. Chức năng gan, các sự kiện bất lợi, và tỷ lệ sống sót đã được đánh giá trong thời gian theo dõi 48 tuần hoặc 72 tuần. Không có tác dụng phụ đáng kể nào được quan sát trong quá trình thử nghiệm. Việc truyền UC-MSC đã làm tăng đáng kể tỷ lệ sống sót ở bệnh nhân ACLF; giảm điểm số mô hình cho bệnh gan giai đoạn cuối; tăng nồng độ albumin huyết thanh, cholinesterase, và hoạt tính prothrombin; và tăng số lượng tiểu cầu. Mức bilirubin toàn phần và alanine aminotransferase trong huyết thanh đã giảm đáng kể sau khi truyền UC-MSC. Việc truyền UC-MSC là an toàn trong lâm sàng và có thể là một phương pháp điều trị mới cho bệnh nhân ACLF liên quan đến HBV.

Phát triển tiêu chí chẩn đoán và điểm số tiên lượng cho suy gan cấp trên nền gan mạn tính liên quan đến virus viêm gan B Dịch bởi AI
Gut - Tập 67 Số 12 - Trang 2181-2191 - 2018
Mục tiêu

Định nghĩa về suy gan cấp trên nền gan mạn tính (ACLF) dựa trên xơ gan, không phân biệt nguyên nhân, vẫn còn nhiều tranh cãi. Nghiên cứu này nhằm làm rõ đặc điểm lâm sàng và bệnh lý của bệnh nhân có ACLF liên quan đến virus viêm gan B (HBV-ACLF) trong một nghiên cứu tiến cứu và phát triển tiêu chí chẩn đoán mới cùng với điểm số tiên lượng cho những bệnh nhân này.

Thiết kế

Dữ liệu lâm sàng từ 1322 bệnh nhân nhập viện do suy gan cấp decompensation của xơ gan hoặc tổn thương gan nặng do viêm gan mạn tính B (CHB) tại 13 trung tâm gan ở Trung Quốc đã được sử dụng để phát triển các tiêu chí chẩn đoán và tiên lượng mới.

Kết quả

Trong số các bệnh nhân được đánh giá theo tiêu chí của Hiệp hội Suy gan Mạn tính, ngoại trừ xơ gan, đã xác định có 391 bệnh nhân mắc ACLF: 92 bệnh nhân có ACLF không xơ gan HBV, 271 bệnh nhân có ACLF xơ gan HBV và 28 bệnh nhân có ACLF với xơ gan do nguyên nhân không liên quan đến HBV (non-HBV-ACLF). Tỷ lệ tử vong ngắn hạn (28/90 ngày) của bệnh nhân có HBV-ACLF cao hơn đáng kể so với những bệnh nhân có non-HBV-ACLF. Bilirubin toàn phần (TB) ≥12 mg/dL và tỷ lệ bình thường hóa quốc tế (INR) ≥1.5 được đề xuất là chỉ số chẩn đoán bổ sung cho HBV-ACLF, và 19.3% bệnh nhân có nguyên nhân HBV đã được chẩn đoán thêm là ACLF. Điểm số tiên lượng mới (0.741×INR+0.523×HBV-SOFA+0.026×tuổi+0.003×TB) cho tỷ lệ tử vong ngắn hạn vượt trội so với năm điểm số khác dựa trên cả nghiên cứu phát hiện và xác nhận ngoài.

Kết luận

Không phụ thuộc vào sự hiện diện của xơ gan, những bệnh nhân mắc CHB, TB ≥12 mg/dL và INR ≥1.5 nên được chẩn đoán là ACLF. Các tiêu chí mới đã chẩn đoán gần 20% bệnh nhân có nguyên nhân HBV mắc ACLF thêm, do đó tăng cơ hội nhận được quản lý kịp thời và tích cực.

#suy gan cấp trên nền gan mạn tính #virus viêm gan B #tiêu chí chẩn đoán #điểm số tiên lượng
Acetaminophen: Độc tính gan do thuốc phụ thuộc liều và suy gan cấp ở bệnh nhân Dịch bởi AI
Digestive Diseases - Tập 33 Số 4 - Trang 464-471 - 2015

<b><i>Bối cảnh:</i></b> Tổn thương gan do thuốc là một vấn đề lâm sàng hiếm gặp nhưng nghiêm trọng. Nhiều loại thuốc có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng và suy gan cấp ở liều điều trị trong một số ít bệnh nhân (<1:10.000). Tổn thương gan do thuốc cá biệt này, hiện không thể dự đoán trong các nghiên cứu an toàn tiền lâm sàng, dường như phụ thuộc vào độ nhạy cảm cá nhân và khả năng không thể thích ứng với căng thẳng tế bào do một loại thuốc cụ thể gây ra. Ngược lại với tổn thương gan do thuốc cá biệt, các thuốc có độc tính gan phụ thuộc liều thường được phát hiện trong các nghiên cứu tiền lâm sàng và không được đưa ra thị trường. Một ngoại lệ đáng chú ý là acetaminophen (APAP, paracetamol), là một loại thuốc an toàn ở liều điều trị nhưng có thể gây tổn thương gan nghiêm trọng và suy gan cấp sau khi quá liều cố ý hoặc không cố ý. <b><i>Thông điệp chính:</i></b> Quá liều APAP là nguyên nhân gây ra nhiều trường hợp suy gan cấp ở Hoa Kỳ và Vương quốc Anh hơn tất cả các nguyên nhân khác cộng lại. Vì quá liều APAP ở chuột là một mô hình cho bệnh sinh của con người, đã có những tiến bộ đáng kể trong thập kỷ qua để hiểu về các cơ chế chết tế bào, tổn thương gan và hồi phục. Gần đây, các chứng cứ nổi lên dựa trên phân tích sinh học đánh dấu cơ chế ở bệnh nhân và nghiên cứu về chết tế bào ở tế bào gan người gợi ý rằng hầu hết các cơ chế phát hiện ở chuột cũng áp dụng cho bệnh nhân. Sự phát triển nhanh chóng của N-acetylcysteine như một thuốc giải độc chống lại quá liều APAP được dựa trên sự hiểu biết sớm về độc tính của APAP ở chuột. Tuy nhiên, mặc dù hiệu quả của N-acetylcysteine ở những bệnh nhân đến sớm sau khi quá liều APAP, vẫn cần phát triển các chiến lược can thiệp cho những bệnh nhân đến muộn. <b><i>Kết luận:</i></b> Những thách thức liên quan đến độc tính của APAP là hiểu rõ hơn về các cơ chế chết tế bào để hạn chế tổn thương gan và ngăn ngừa suy gan cấp, cũng như phát triển các dấu ấn sinh học dự đoán tốt hơn ai có nguy cơ phát triển suy gan cấp với kết quả kém càng sớm càng tốt.

Viêm tủy ngang cấp tính liên quan đến COVID-19: một thực thể hiếm gặp Dịch bởi AI
BMJ Case Reports - Tập 13 Số 8 - Trang e238668 - 2020

SARS-CoV-2 đã gây ra những tổn thất nghiêm trọng trên toàn cầu và cướp đi vô số sinh mạng khắp nơi. Ngoài bệnh lý hô hấp đặc trưng, căn bệnh này còn liên quan đến nhiều biểu hiện và biến chứng ngoại phổi rõ rệt. Một nữ nhân viên y tế 59 tuổi đã xuất hiện với các triệu chứng của bệnh lý tủy sống không chèn ép xuất hiện cấp tính với mức cảm giác ở đoạn tủy T10 cùng với sốt cao kéo dài 4 ngày. Chụp cộng hưởng từ (MRI) cột sống ngực cho thấy có dấu hiệu viêm tủy ở mức đốt sống T7. Bệnh nhân được điều trị bằng steroid dạng tiêm và có một số dấu hiệu cải thiện ban đầu. Một ngày sau, bệnh nhân phát triển tình trạng suy hô hấp cấp, nhưng không thể hồi sinh mặc dù chúng tôi đã nỗ lực hết sức. Mẫu dịch hầu họng của bệnh nhân cho kết quả dương tính với phản ứng chuỗi polymerase phiên mã ngược (RT-PCR) SARS-CoV-2. Chúng tôi báo cáo một trường hợp viêm tủy ngang cấp tính với COVID-19 như là nguyên nhân có thể xảy ra.

#COVID-19 #viêm tủy ngang #SARS-CoV-2 #bệnh thần kinh ngoại biên #suy hô hấp cấp
Đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và một số yếu tố liên quan tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân suy gan cấp trên nền bệnh lý gan mạn do vi rút viêm gan B được điều trị lọc thay thế huyết tương
Mục tiêu: Mô tả đặc điểm lâm sàng, cận lâm sàng và tìm hiểu một số yếu tố liên quan tỷ lệ tử vong ở bệnh nhân ở bệnh nhân suy gan cấp trên nền bệnh lý gan mạn do vi rút viêm gan B được điều trị lọc thay thế huyết tương. Đối tượng và phương pháp: Nghiên cứu mô tả tiến cứu kết hợp hồi cứu có theo dõi dọc 70 bệnh nhân viêm gan mạn và xơ gan do vi rút viêm gan B có suy gan được điều trị bằng liệu pháp lọc thay thế huyết tương tại Bệnh viện Trung ương Quân đội 108 từ 01/2018-06/2022. Kết quả: Trong số 70 bệnh nhân, 58/70 (82,9%) là nam, 43/70 (61,4%) dưới 60 tuổi. 100% ca bệnh có biểu hiện mệt mỏi và vàng da. Phù và xuất huyết ngoài da gặp lần lượt 24,3% và 18,6%. Xét nghiệm bilirubin toàn phần và NH3 trong máu tăng cao lần lượt là 443,6 ± 120,2µmol/L và 108,7 ± 70,4µmol/L; tỷ lệ prothrombin máu 34,4 ± 18,7%. Tỷ lệ prothrombin < 40%, NH3 ≥ 100µg/dL và bilirubin toàn phần ≥ 500µmol/L gặp tỷ lệ tương ứng là 71,4%, 48,6%, 42,9% và 28,6%. Tỷ lệ sống 28 ngày của nhóm viêm gan mạn là 10/27 (37,0%) cao hơn so với nhóm xơ gan 13/43 (30,2%), tuy nhiên sự khác biệt là không có ý nghĩa thông kê với p=0,371. Tỷ lệ prothrombin < 40% và tăng NH3 ≥ 100µg/L là những yếu tố có liên quan đến tăng tỷ lệ tử vong. Kết luận: Biểu hiện lâm sàng thường gặp là vàng da, phù và xuất huyết. Đặc điểm xét nghiệm đặc trưng được ghi nhận là prothrombin giảm < 40%; albumin giảm dưới 30g/L; NH3 máu tăng trên 100µg/dL. NH3 và prothrombin là những yếu tố có liên quan đến tỷ lệ tử vong.
#Viêm gan B mạn #suy gan #lọc thay thế huyết tương
SUY GAN CẤP TRÊN NỀN MẠN: BÁO CÁO CA LÂM SÀNG ĐIỀU TRỊ THÀNH CÔNG BẰNG THAY HUYẾT TƯƠNG
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 519 Số 1 - 2022
Suy gan cấp trên nền mạn là một biến chứng nặng ở những bệnh nhân bệnh gan mạn tính. Định nghĩa và tiêu chuẩn của suy gan cấp trên nền mạn có sự khác biệt giữa phương Tây (các nước Âu-Mỹ) và phương Đông (châu Á). Điều trị suy gan cấp trên nền mạn chủ yếu là điều trị triệu chứng và các yếu tố thúc đẩy. Bệnh có tỷ lệ tử vong cao, thường cần phải được ghép gan hoặc điều trị thay huyết tương hỗ trợ. Chúng tôi xin báo cáo một trường hợp bệnh nhân nam, 73 tuổi, được chẩn đoán suy gan cấp trên nền mạn độ 2 (10 điểm) do đợt bùng phát viêm gan B mạn, theo tiêu chuẩn của Hiệp hội nghiên cứu bệnh gan châu Á Thái Bình Dương. Bệnh nhân nhập viện trong tình trạng vàng da, ăn kém, mệt mỏi, nước tiểu vàng sậm. Bệnh nhân đáp ứng kém với thuốc điều trị thông thường và được điều trị bằng thay huyết tương.
#Suy gan cấp trên nền mạn #viêm gan virus B #thay huyết tương
TÌM HIỂU ĐẶC ĐIỂM LÂM SÀNG VÀ CẬN LÂM SÀNG BỆNH NHÂN SUY GAN CẤP
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 511 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu với mục đích nghiên cứu đặc điểm lâm sàng và cận lâm sàng của bệnh nhân suy gan cấp. Đối tượng và phương pháp: Tổng số 60 bệnh nhân được chẩn đoán suy gan cấp tại Trung tâm tiêu hóa gan mật bệnh viện Bạch mai được đưa vào nghiên cứu từ tháng 01/2020  đến 7/2021. Kết quả: Trong 60 bệnh nhân nghiên cứu tuổi bệnh nhân từ 21 đến 60 chiếm 68.3%. Triệu chứng lâm sàng thường gặp nhất là mệt mỏi, chán ăn tới 100%, vàng da 86,7%; Các đặc điểm cận lâm sàng, 100% bệnh nhân có tăng enzyme gan alanine aminotransferase (ALT) và aspartate aminotransferase (AST) và giảm albumin trong máu; ngoài ra phần lớn bệnh nhân có biểu hiện rối loạn điện giải như hạ natri máu (78.3%) và hạ kali máu (35%). Kết luận: Triệu chứng thường gặp nhất ở bệnh nhân suy gan cấp là vàng da và tình trạng tăng mạnh các enzyme gan.
#Suy gan cấp #lâm sàng
NHẬN XÉT GIÁ TRỊ MỘT SỐ YẾU TỐ TRONG TIÊN LƯỢNG SUY GAN CẤP Ở TRẺ EM
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 501 Số 1 - 2021
Suy gan cấp (SGC) là một hội chứng hiếm gặp, đặc trưng bởi tổn thương chức năng gan nhanh và trầm trọng ở bệnh nhân trước đó không có tổn thương gan. SGC do nhiều căn nguyên gây ra. Trẻ mắc SGC cần được chẩn đoán phát sớm nguyên nhân và tiên lượng được tình trạng nặng để có hướng xử trí đúng nhằm hạn chế biến chứng, tử vong. Nghiên cứu mô tả tiến hành trên 94 trẻ SGC với độ tuổi trung bình là 10 tháng, trẻ nhỏ tuổi nhất là 2 ngày, trẻ lớn tuổi nhất là 14 tuổi. Nhóm tuổi có tỷ lệ cao nhất là trẻ nhũ nhi chiếm 44,7% (n= 43), tiếp theo là trẻ nhỏ  43,6% (n= 42). Trẻ lớn (≥ 12 tuổi) và trẻ sơ sinh có tỷ lệ thấp 7,4% (n= 7) và 4,3% (n= 4). Không có sự khác biệt về giới tính về tỷ lệ mắc bệnh. Nguyên nhân SGC thường gặp nhất là bệnh chuyển hóa (23,4%) với bệnh Wilson, rối loạn chuyển hóa chu trình ure, thiếu hụt citrin là những bệnh chính. Tỷ lệ SGC không rõ nguyên nhân chiếm 47,9%. Các triệu chứng vàng da, bệnh não gan và gan teo nhỏ là các triệu chứng thường gặp ở các bệnh nhân có tiên lượng xấu. Xét nghiệm cận lâm sàng có giá trị tiên lượng tử vong là INR cao nhất trên 4,2 với AUC= 0,74, độ nhạy 72,1%, độ đặc hiệu 74,5%, giá trị dự báo dương tính 68,9%, giá trị dự báo âm tính 75,5% và Bilirubin≥ 300 µmol/l cho giá trị tiên lượng ở mức độ trung bình với AUC≥ 0,7.
#Suy gan cấp #INR #Bilirubin #yếu tố tiên lượng
TÌM HIỂU NGUYÊN NHÂN GÂY SUY GAN CẤP TẠI BỆNH VIỆN BẠCH MAI
Tạp chí Y học Việt Nam - Tập 512 Số 2 - 2022
Mục tiêu: Nghiên cứu phân loại nguyên nhân gây ra suy gan cấp. Đối tượng và phương pháp: Tổng số 60 bệnh nhân được chẩn đoán suy gan cấp tại Trung tâm tiêu hóa gan mật bệnh viện Bạch mai được đưa vào nghiên cứu từ tháng 01/2020  đến 7/2021. Kết quả: Nguyên nhân của suy gan cấp, 35% nguyên nhân là do thuốc đông ty, 18,3% là do viêm gan virus B, 10% do paracetamol, còn lại 18,3% là các nguyên nhân khác. Kết luận: Nguyên nhân thường gặp gây ra suy gan cấp là thuốc đông y và viêm gan virus B.
#Suy gan cấp #nguyên nhân
Phát triển hệ thống hỗ trợ gan nhân tạo (ALS) đáng tin cậy - trao đổi huyết tương kết hợp với thẩm tách huyết tương sử dụng màng hiệu suất cao Dịch bởi AI
Digestive Diseases and Sciences - Tập 38 - Trang 469-476 - 1993
Một hệ thống hỗ trợ gan nhân tạo mới (ALSS) kết hợp giữa trao đổi huyết tương (PE) với thẩm tách huyết tương (HDF) sử dụng màng hiệu suất cao từ polymethyl metacrylate (PMMA) và cellulose triacetate (CTA) đã được phát triển để loại bỏ hiệu quả phân tử trung bình từ huyết tương và điều trị suy gan cấp tính (FHF) phức tạp, dẫn đến hôn mê gan. Hai mươi bảy bệnh nhân mắc FHF do viêm gan virus, trong đó hai người mắc viêm gan A (HA), chín người mắc viêm gan B (HB) và 16 người mắc viêm gan không phải A, không phải B (NANB) đã được điều trị bằng ALSS mới này trong năm năm qua. Ba bệnh nhân, bị trầm trọng hóa viêm gan mãn tính HB và 15/16 bệnh nhân mắc viêm gan loại NANB cũng được điều trị bằng interferon (IFN). Trong số đó, 25 bệnh nhân (92,6%) đã lấy lại ý thức và 15 bệnh nhân (55,6%) [1/2 (50%) mắc viêm gan A, 6/9 (66,7%) mắc viêm gan B và 8/16 (50%) mắc viêm gan NANB] đã sống sót. Bao gồm bốn bệnh nhân sống sót chỉ với việc chăm sóc tích cực và trao đổi huyết tương, 19/31 (61,3%) bệnh nhân đã sống sót. Nhờ vào tính biocompatibility của nó, cả bệnh nhân sống sót và không sống sót đều có thể được duy trì bằng ALSS mà không gặp biến chứng trong thời gian dài (19,3 ngày cho bệnh nhân sống sót và 32,4 ngày cho bệnh nhân không sống sót). Với ALSS này, khả năng duy trì sự sống trong một khoảng thời gian dài cho phép sự tái sinh gan xảy ra và dẫn đến sự sống sót của bệnh nhân. Người ta dự đoán rằng ALSS mới này sẽ không chỉ có giá trị trong các trường hợp suy gan cấp tính mà còn có thể đóng vai trò trong việc duy trì sự sống cho những người chờ ghép gan.
#hệ thống hỗ trợ gan nhân tạo #trao đổi huyết tương #thẩm tách huyết tương #suy gan cấp tính #viêm gan virus
Tổng số: 44   
  • 1
  • 2
  • 3
  • 4
  • 5